Thứ bảy, 20/04/2024

Đền Bà Kiệu

Đền Bà Kiệu tọa lạc tại số nhà 59 đường Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Theo sử sách, đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên Điện”, còn được gọi là đền Huyền Chân, trước đây thuộc thôn Tả Vọng, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội. Giữa thế kỷ 19, đền thuộc thôn Hà Thanh, phường Đông Các, huyện Thọ Xương; đầu thế kỷ 20, đền thuộc phố Bờ Hồ (Rue du Lac), tọa lạc theo hướng Nam, đối diện đền Ngọc Sơn.

Hệ thống 27 đạo sắc phong thần của các triều Lê - Tây Sơn - Nguyễn và tấm biển gỗ treo trên hậu cung trong đền ghi “Thiên Tiên điện” cho biết đền thờ ba vị thần là: Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc Nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Bà Liễu Hạnh còn có tên tôn kính là bà chúa Liễu, Chúa Sòng Mẫu Nghi thiên hạ, Mẫu Phủ Giày.

Đền Bà Kiệu xưa kia khá khang trang trong một khuôn viên đẹp và rộng rãi. Do việc mở đường nên kiến trúc đền bị tách làm hai phần: Tam quan nằm sát ven hồ Gươm gồm ba gian xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”, mái lợp ngói ta với các bộ vì kiểu chồng rường đỡ mái. Thân các con rường chạm nổi hoa văn thực vật, văn mây. 

Kiến trúc chính, dạng chữ “công” gồm: Đại bái, Phương đình và Hậu cung. Nhà Đại bái gồm ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng. Bộ mái gần gũi với kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc dạng bờ đinh, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa. Bộ khung nhà Đại bái định vị khá vững chắc, có 8 cột trụ, chu vi cột cái là 115cm, cột quân là 105cm. Các hàng cột hiện được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh 25cm. Cột đá ở cửa Hậu cung có đôi câu đối cho biết thêm về nguồn gốc Bà Chúa Liễu:

Khảm nhất chung anh thiên tượng mẫu,

Khôn trùng phối hậu đại trung tiên.

Tạm dịch:

Trời cao xa vời vợi, tụ khí anh linh ra người mẹ,

Ngọc Hoàng đầy xuống trần, đất dày chung đúc hoá thành tiên.

Nhà Tiền tế có bốn tượng cá chép hoá rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể cho kiến trúc đền. Liền sau Tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng các hoa văn truyền thống phổ biến theo kiến trúc thời Nguyễn.

Hậu cung là nơi tọa lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Các nữ thần được tọa lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm 3 pho trong tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thiên, Mẫu Thuỷ, Mẫu Địa). Lớp dưới có các tượng công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ này còn có bốn tượng nhỏ (2 tượng cô, 2 tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu Thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn. Hai gian bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong các đền Mẫu như: Ngọc Hoàng, các vị tôn ông. Các pho tượng này có kích thước nhỏ, tạo tác dưới thời Nguyễn (Thế kỷ 19). 

Di tích đền Bà Kiệu hiện nay còn giữ được bộ sưu tập di vật văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau, trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Trong đó phải kể đến 4 tấm bia đá dựng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800), Tự Đức thứ 19 (1866) cùng hệ thống 27 đạo sắc phong của các triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. 

Đền Bà Kiệu - một di tích mang đậm nét kiến trúc cổ truyền và phong phú về nội dung lịch sử đã được tu bổ, tôn tạo, gắn với vẻ đẹp thơ mộng của hồ Gươm, mãi mãi là điểm đến hấp dẫn của đông đảo khách tham quan trong nước và quốc tế mỗi dịp về thăm Thủ đô Hà Nội. Di tích đền Bà Kiệu được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 5/2/1994.

Copyright Hoan Kiem 360 © 2020. Developed & Managed by VinGG
Lượt truy cập: 27,768,307